Tumgik
#richard connell
Text
Tumblr media
64 notes · View notes
reine-du-sourire · 5 months
Text
Oh, my favorite author has unexpectedly stumbled upon my secret hideaway by accidentally falling off of a boat! And now, sir, prepare yourself for continuous and enthusiastic infodumping as we delve into our shared hyperfixation, which incidentally I have constructed my entire life around! What? No, you can't leave, you'll love it here! What do you mean the way I kill people is barbaric and uncivilized and you want no part in it? You keep saying what an admirable specimen of manhood I am! I used to be nobility, you know, but I ran away because people were mean to me. Let me show you the mechanism that I designed to theme and construct and indulge my hyperfixation, which is what led you to accidentally enter my life in the first place. See? Isn't it wonderful? Now let me show you-
General Zaroff 🤝 Captain Nemo
20 notes · View notes
bracketsoffear · 29 days
Text
Tumblr media
The Most Dangerous Game (Richard Connell) "Big-game hunter Sanger Rainsford and his friend Whitney are traveling by ship to the Amazon rainforest for a jaguar hunt. Rainsford falls overboard while investigating the sound of gunshots in the distance and swims to Ship-Trap Island, where he finds General Zaroff and his manservant Ivan. Zaroff, another big-game hunter, knows of Rainsford from his published account of hunting snow leopards in Tibet. Over dinner, he explains that although he has been hunting animals since he was a boy, he has decided that killing big game has become boring for him. After escaping the Russian Revolution, he purchased Ship-Trap and rigged the island with lights to lure passing ships into the jagged rocks that surround it. He takes the survivors captive and hunts them for sport, giving himself handicaps to increase the challenge. Any captives who can elude Zaroff, Ivan, and a pack of hunting dogs for three days are set free; to date, though, Zaroff has never lost a hunt. Rainsford denounces the hunt as barbarism, but Zaroff replies by claiming that ‘life is for the strong.’ Zaroff is enthused to have another world-class hunter as a companion and offers to take Rainsford along with him on his next hunt. When Rainsford staunchly refuses and demands to leave the island, Zaroff decides to hunt him instead. Rainsford uses traps and cleverness to outmaneuver Zaroff, killing Ivan and one of the dogs before jumping into the sea. Disappointed at Rainsford's apparent suicide, Zaroff returns home, but finds Rainsford waiting for him, having swum around the island to evade the dogs and sneak into the chateau. Zaroff offers congratulations for defeating him, but Rainsford prepares to fight him, saying that the hunt is not yet over. A delighted Zaroff responds that the loser will be fed to his dogs, while the winner will sleep in his bed. The story abruptly concludes later that night by stating that Rainsford enjoyed the comfort of the bed, implying that he killed Zaroff in the fight."
And Then There Were None (Agatha Christie) "Ten people, trapped on an island, all of them murderers who escaped justice. They are slowly picked off one by one as judgement for their crimes, causing them to search desperately for the killer before turning on one another, evoking themes of paranoia and betrayal akin to MAG 176: Blood Ties. (Spoilers below the cut)"
Spoilers: The killer was the judge, who had gone into law enforcement to sate his desire for killing and punishment, much like Daisy Tonner did
6 notes · View notes
ashley-slashley · 5 months
Text
if john calls himself a wolf or is called a wolf, i'm legally obligated to put him on that island from the most dangerous game by richard connell
7 notes · View notes
sesiondemadrugada · 3 months
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
A Game of Death (Robert Wise, 1945).
4 notes · View notes
Text
NO BUT MY ENGLISH CLASS FRIENDS TOLD ME THAT ZAROFF WAS “PROBABLY MISUNDERSTOOD” AND/OR “THE OUTCAST OF THE FAMILY” OR WHATEVER AS A HALF-JOKE BECAUSE OF THE BIZARRE THINGS HE WOULD DO FOR HUNTING. Cue me sarcastically calling him “General Zaroff, my poor little meow meow and unproblematic fave,” then turning around, explaining the lingo, and saying he’d be more of a problematic fave if people actually thought about him that way. Cue one of them telling me to never call him that again. Cue me saying that crazy people on the Internet probably ship him with Rainsford. Cue another girl telling me she “can see the fanart now.”
Cue me making the regrettable decision to look the story up on AO3 and finding that I was indeed correct. People do ship them and write really questionable things about them (not like I’m judging, just saying that it is questionable considering canon).
13 notes · View notes
koro-is-caffeinated · 2 years
Text
The Most Dangerous Game has highly homoerotic enemies to lovers overtones. Send post.
33 notes · View notes
Text
Tumblr media
short story post bc i love short stories! full read on the site attached and many more out there, read the most dangerous game in middle school and still love going back to it.
6 notes · View notes
cinemaquiles · 2 years
Video
youtube
O JOGO MAIS PERIGOSO: DEZ FILMES EM QUE HUMANOS SÃO CAÇADOS
2 notes · View notes
cultfaction · 2 years
Text
Preview- The Most Dangerous Game (Masters of Cinema Bluray)
Preview- The Most Dangerous Game (Masters of Cinema Bluray)
Based upon the ever-popular short story by Richard Connell, The Most Dangerous Game remains a hugely influential masterpiece 90 years after its release. Big game hunter, Bob Rainsford (Joel McCrea), barely survives a shipwreck in shark infested waters and washes ashore on the private island of the sinister Count Zaroff (played with a delightful zeal by Leslie Banks). Zaroff fancies himself an…
Tumblr media
View On WordPress
2 notes · View notes
shesamreads · 2 months
Text
Tumblr media
"There is no greater bore than perfection."
Tumblr media
Like. Don't kill people for fun, but perfection is boring.
This short story is quick! but it's interesting, and the ending is perfect. 
0 notes
pulpficat · 9 years
Text
Trò chơi nguy hiểm nhất - Richard Connell
“Ở ngoài kia, phía bên phải đấy, có một hòn đảo lớn, khá huyền bí.” Whitney nói.
“Ðó là đảo gì thế? Raisford hỏi lại.
“Trên hải đồ cũ nó được gọi là Ðảo Bẫy Tàu.” Whitney trả lời. “Một cái tên hấp dẫn phải không? Tôi không hiểu tại sao các thủy thủ hãi nơi này lắm, một vài người rất mê tín.”
“Không thể nhìn thấy được.” Rainsford căng mắt ra nhìn vào trong màn đêm nhiệt đới ẩm ướt mà tưởng chừng như có thể sờ thấy được màn đêm đen dày đang đè nặng lên chiếc du thuyền.
“Anh có đôi mắt thật tốt, tôi đã từng thấy anh hạ một con nai Bắc Mỹ đang lẩn đi dưới bụi rậm cách xa đến bốn trăm mét, nhưng anh không thể nhìn quá bốn dặm vào một đêm không trăng ở vùng Caribê này.” Whitney cười và nói.
“Không quá bốn mét ấy chứ.” Rainsford thừa nhận. “Khiếp. Cứ như một tấm nỉ đen ẩm ướt.”
“Ở Rio sẽ sáng hơn đấy.” Whitney hứa hẹn. “Vài ngày tới chúng ta sẽ đến đấy. Tôi hy vọng những tay súng từ Purdey’s đã đến. Chúng ta sẽ có cuộc đi săn thú vị ở vùng Amazon. Ði săn, quả là một môn thể thao vĩ đại!”
“Môn thể thao vĩ đại nhất thế giới.” Rainsford đồng tình.
“Cho những người đi săn, không phải cho những con báo đốm.” Whitney sửa lại.
“Thôi đừng lý sự nữa Whitney, anh là thợ săn chứ đâu phải là triết gia. Ai mà thèm quan tâm đến cảm tưởng của con báo.”
“Có lẽ lũ báo đốm quan tâm đấy.” Whitney nhận xét.
“Chậc! Chúng nó có hiểu biết gì đâu.”
“Dù vậy, tôi vẫn cứ nghĩ rằng chúng nhận thức được một điều - nỗi sợ hãi. Sợ hãi sự đau đớn và sợ hãi cái chết.”
“Vô lý.” Rainsford cười. “Cái thời tiết nóng bức này đang làm anh mềm yếu đi Whitney ạ. Thực tế một chút đi. Thế  giới này đã phân chia thành hai tầng lớp - kẻ đuổi, người chạy. May mắn thay, tôi và anh là những kẻ đuổi. Anh có nghĩ là chúng ta sẽ qua được hòn đảo kia không?”
“Tôi không thể nói gì được trong bóng tối như thế này. Hy vọng là được.”
“Tại sao.” Rainsford hỏi.
“Nơi đó nổi tiếng là một nơi tồi tệ.”
“Những kẻ ăn thịt người à?” Rainsford hỏi.
“Không đâu. Thậm chí những kẻ ăn thịt người cũng không sống ở một nơi mà Chúa đã từ bỏ như vậy. Chẳng hiểu vì sao mà nó ăn sâu vào tâm trí của thủy thủ. Anh không thấy hôm nay đám thủy thủ hơi hoảng loạn hay sao?”
“Họ có hơi khác, vậy mà bây giờ anh mới nói. Ngay cả thuyền trưởng  Nielsen.”
“Ừ, ngay cả ông già Thụy Điển lão luyện, người mà tôi mới đến xin lửa. Ðôi mắt xanh như mắt cá ánh lên cái nhìn mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Tất cả những gì tôi có thể moi được ở ông ấy là: ‘Nơi này được gọi là nơi kinh khủng nhất của những người đi biển, thưa ông.’ Thế rồi ông nói với tôi vẻ cực kỳ nghiêm trọng: ‘Ông không cảm thấy gì hết sao?’ làm như bầu không khí hiện thời chung quanh chúng ta chứa toàn chất độc. Bây giờ, tôi nói anh đừng  cười chứ bỗng nhiên tôi cảm thấy có cái gì đó ớn lạnh.”
“Chẳng có một ngọn gió nào. Mặt biển phẳng lặng như gương. Chúng ta đang bị cuốn về gần đảo rồi đó. Tôi cảm thấy nổi gai ốc.”
“Chỉ tưởng tượng thôi.” Rainsford trả lời. “Chỉ có một tên thủy thủ mê tín mà làm hỏng cả đám bằng nỗi sợ hãi vớ vẩn.”
“Có thể. Nhưng thỉnh thoảng tôi nghĩ các thủy thủ vẫn có những linh cảm khi họ sắp gặp nguy hiểm. Ðôi khi tôi nghĩ, tai họa là một thứ gì đó hữu hình, có bước sóng dài giống như âm thanh và ánh sáng. Một nơi đầy tai họa -  có thể nói là  - có thể phát ra những xung động của tai họa. Dù sao đi nữa tôi cũng rất mừng nếu chúng ta thoát được ra khỏi vùng này. Nào, tôi nghĩ tôi phải vào bên trong ngay bây giờ Rainsford ạ.”
“Tôi không buồn ngủ.” Rainsford đáp. Tôi sẽ hút thêm một điếu nữa ở trên boong.”
“Chúc ngủ ngon Rainsford. Hen gặp lại vào bữa sáng.”
“Ô kê, chúc ngủ ngon, Whitney.”
Khi Rainsford ngồi đó, đêm không có một tiếng động nào ngoại trừ tiếng động cơ của thuyền chạy nhanh và tiếng nước lào xào ở chân vịt.
Rainsford ngồi tựa đầu vào chiếc ghế cạnh buồng hơi, lười biếng bập từng hơi thuốc trên cái tẩu bằng rễ thạch nam mà anh ưa thích. Cái cảm giác lơ mơ của đêm ập đến. “Trời tối đến nỗi mình có thể ngủ mà không cần nhắm mắt nữa; bóng đêm đã là mí mắt của mình rồi.”
Ðột ngột một tiếng vang làm anh giật mình.  Anh nghe thấy âm thanh này ở ngoài xa, phía bên phải, không thể nhầm lẫn được với đôi tai nhà nghề của anh. Anh nghe âm thanh ấy một lần nữa, rồi một lần nữa. Ðâu đó trong bóng đêm, có ai đó đã nổ súng 3 lần.
Rainsford bật dậy và chạy nhanh đến thành tàu, bối rối. Anh căng mắt nhìn về hướng có tiếng súng nổ nhưng cũng giống như anh cố nhìn xuyên qua tấm mền. Anh vươn người qua thành tàu để có thể rướn lên cao hơn và cố giữ thăng bằng; chiếc tẩu của anh vướng vào một sợi dây, rơi xuống. Anh lao theo nó, một tiếng kêu thảng thốt từ môi anh vang lên khi anh nhận ra anh đã với quá xa và mất thăng bằng. Tiếng kêu ngắn ngủi tắt lịm đi khi giòng nước biển Caribê ngập qua đầu anh.
Anh cố gắng ngoi lên mặt nước và gắng sức thét lên, nhưng lớp nước từ chiếc thuyền đang lướt nhanh cứ vã vào mặt anh cộng với nước muối ngập trong miệng làm anh ngạt thở. Anh liều mạng sải tay chân bơi theo những ánh đèn đang mờ dần của chiếc thuyền. Sau khi đã bơi được 50 bộ, anh dừng lại. Anh bỗng cảm thấy bình tĩnh, đây không phải là lần đầu tiên anh ở trong tình thế khó khăn. Chỉ có một cơ hội duy nhất đểâ người trên tàu có thể nghe thấy tiếng kêu của anh, nhưng cơ hội đó càng lúc càng mong manh hơn khi chiếc thuyền cứ tiếp tục chạy. Anh cố gắng thoát ra khỏi bộ áo quần nặng nề và la hét bằng tất cả sức lực. Nhưng những ánh đèn của chiếc thuyền trở nên nhạt dần và lập lòe như những con đom đóm; rồi cuối cùng biến mất trong màn đêm.
Rainsford nhớ đến những tiếng súng. Chúng vọng đến từ  phía bên phải, anh bền bỉ bơi về hướng đó, bơi thong thả để giữ sức. Vì cảm thấy thời gian cứ như vô tận, anh bắt đầu đếm những sải tay; anh đếm có thể đã đếm hơn một trăm và khi đó..
Rainsford nghe một âm thanh từ trong bóng tối, một tiếng rống, âm thanh của con thú trong sự đau khổ và kinh hãi tột độ. Anh không nhận ra đó là con thú gì, và cũng không quan tâm đến điều đó; với bản năng sinh tồn anh anh bơi về phía âm thanh. Anh nghe thấy một lần nữa, lần này âm thanh ấy bị ngắt bởi một âm thanh khác, mạnh và khô khốc.
“Tiếng súng lục.” Rainsford lẩm bẩm, tiếp tục bơi.
Sau mười phút nổ lực âm thanh khác vang đến tai anh - âm thanh dễ chịu nhất mà anh chưa từng nghe -đó là tiếng sóng biển rầm rì xô đập vào bờ biển lởm chởm đá. Anh gần như kiệt sức trước khi anh nhìn thấy bờ; Với sức lực còn sót lại anh cố thoát ra khỏi giòng nước cuốn. Những dốc đá lởm chởm lờ mờ mấp mô. Anh cố gắng trèo ngược lên, tay nọ tiếp tay kia. Thở hổn hển, hai tay rét căm căm anh đã đến được một nơi bằng phẳng trên đỉnh. Khu rừng rậm dốc xuống đến bờ rìa của những vách đá. Nỗi nguy hiểm mà khu rừng rậm rạp và những bụi cây hỗn mang đang đe dọa cũng không làm cho Rainsford bận tâm. Tất cả những gì mà anh nhận thức được ngay lúc này là anh đã được an toàn, thoát khỏi kẻ thù, biển sâu, và nỗi kinh hoàng. Anh đu người xuống bìa rừng và rơi vào một giấc ngủ sâu nhất trong đời.
Khi anh mở mắt ra trời đã xế bóng. Giấc ngủ đã mang đến cho anh một nguồn sinh lực mới; một cơn đói cào lên trong anh. Anh nhìn xung quanh, gần như khoan khoái.
“Nơi nào có tiếng súng, tất có con người. Nơi nào có con người, tất có thức ăn.” Anh nghĩ. Nhưng đó là loại người nào, anh tự hỏi, ở một nơi trông gớm guốc như thế này? Một tiếng gầm gừ vang dài n��i mép biển hoang tàn.
Nhìn xuyên qua những lùm cây cỏ rậm rạp anh không thấy một dấu hiệu nào. Men theo bờ biển thật dễ dàng, do vậy Rainsford loạng choạng đứng lên đi dọc theo mép nước. Ði chưa được bao xa, anh dừng lại.
Có một con vật nào đó bị thương - dựa vào những dấu vết, đó là một con thú to lớn - đã lồng lộn quẫy đạp trong bụi cây; Những đám cỏ hoang bị ngã rạp xuống và từng mảng rêu bị xé rách; một vạt cỏ bị biến màu đỏ thẫm. Một vật nhỏ lấp lánh nằm không xa đập vào mắt Rainsford, anh nhặt lấy. Ðó là một cái vỏ đạn.
“Hai mươi hai.” Anh nhận xét “ Thật kỳ lạ. Ắt hẳn là một con thú thật lớn. Người đi săn đã can đãm đối đầu với một khẩu súng nhẹ. Rõ ràng là một trận thư hùng. Mình cho là ba phát súng đầu tiên mình nghe là lúc người thợ săn xua con mồi và làm bị thương nó. Phát cuối cùng là khi anh ta lần theo dấu vết  đến đây và hạ gục nó.
Anh xem xét dưới dất một cách kỹ càng và tìm thấy những gì mà anh muốn thấy - dấu vết của những chiếc ủng đi săn. Chúng dọc theo vách đá theo hướng anh đang đi. Nôn nóng, anh vội vã đi theo, dù trượt chân trên một khúc gỗ mục hay một hòn đá nằm chênh vênh; nhưng anh vẫn tiếp tục đi; màn đêm bắt đầu buông xuống hòn đảo.
Khi bóng đen lạnh lẽo bao trùm lấy biển và khu rừng thì Rainsford trông thấy những ánh đèn. Anh đi vòng theo bờ biển tiến dần về phía ánh sáng; ý nghĩ đầu tiên trong anh là anh đã đến được một ngôi làng có nhiều ánh đèn. Nhưng khi đến gần anh vô cùng sửng sốt khi thấy tất cả những ánh đèn ấy là của một tòa nhà đồ sộ  - Một kiến trúc cao ngất với những chiếc tháp nhọn đâm ngược lên bầu trời ảm đạm. Mắt anh nhận ra đó là hình thù của một tòa lâu đài nguy nga; nằm trên một dốc đứng; Ba mặt của lâu đài là những vách đá chìm ngập phía dưới nơi biển cả liếm đôi môi thèm khát vào đấy.
“Ảo ảnh”, Rainsford nghĩ. Nhưng đó không phải là ảo ảnh; anh nhận ra điều đó khi mở cánh cổng sắt nhọn. Những bậc đá cũng đủ chứng minh là hiện thực; Một cánh cửa đồ sộ với một chiếc búa hình đầu người để gõ là thực; tuy nhiên ngoài những thứ ấy ra thì bầu không khí không có vẻ gì là thực.
Anh nhấc chiếc búa, nó rít lên tiếng kẽo kẹt như chưa bao giờ được sử dụng trước đây.  Anh để nó rơi xuống; nó làm anh giật mình bì một tiếng bùm chát chúa. Anh cảm tưởng đã nghe thấy tiếng chân bên trong; cách của vẫn đóng. Một lần nữa Rainsford nhấc chiếc búa nặng và để nó rơi xuống. Lúc đó cánh cửa mở bật ra như thể có lò xo  - Rainsford đứng chớp mắt trước một giòng sông ánh sáng vàng rực đổ ra. Ðiều đầu tiên mà mắt Rainsford chú ý đến là một người đàn ông to đến nỗi mà Rainsford chưa từng thấy  - Một người khổng lồ; hiên ngang với hàm râu đen dài đến hông. Trong tay ông ta là một khẩu súng lục có nòng dài, đang chỉa thẳng ngay tim Rainsford.
Hai con mắt ti hí đang xem xét Rainsford với lời lầm bầm thoát ra từ đám râu rậm.
“Ðừng lo.” Rainsford nói với một nụ cười hy vọng sẽ làm đối phương dịu đi. “Tôi không phải là cướp. Tôi ngã ra khỏi thuyền. Tên tôi là Sanger Rainsford, tôi đến từ New York.”
Vẫn cái nhìn đe dọa. Khẩu súng chỉa thẳng cứng như thể gã khổng lồ là một bức tượng. Không có một dấu hiệu nào chứng tỏ gã hiểu được những lời của  Rainsford, hoặc giả gã nghe thấy. Gã mặc đồng phục  - một bộ đồng phục  đen trang điểm bằng lông cừu xám.
“Tôi là Sanger Rainsford ở New York.” Rainsford lập lại. “Tôi bị ngã. Tôi rất đói.”
Câu trả lời duy nhất của gã là nâng khẩu súng lên. Thế rồi Rainsford thấy gã đưa tay kia lên trán theo kiểu chào quân đội, gã đập gót chân đồng thời đứng nghiêm. Một người đàn ông khác đang đến bậc thềm bằng đá cẩm thạch, đó là một con người mảnh dẽ dáng thẳng trong bô quần áo mặc nhà. Ông ta tiến đến và chìa tay ra.
Một giọng rõ ràng, cách nhấn âm nhẹ nhàng một cách chuẩn xác đầy hữu ý, ông ta nói, “Thật vô cùng hân hạnh và vinh dự được đón tiếp ngài Sanger Rainsford, một xạ thủ trứ danh, đến nhà tôi.”
Rainsford bắt tay người đàn ông một cách máy móc.
“Tôi đã từng đọc sách của anh viết về chuyện săn báo tuyết ở Tibet, chắc anh cũng biết.” Người đàn ông giải thích. “Tôi là tướng Zaroff.”
Aán tượng đầu tiên của Rainsford là người đàn ông đẹp trai một cách lạ thường, ấn tượng thứ hai là có một nét gì đó độc đáo gần như kỳ quái trên khuôn mặt ông tướng. Ông ta là một người đàn ông khá cao đã qua tuổi trung niên, bởi vì tóc ông đã bạc trắng; thế nhưng hàng lông mày rậm và bộ râu mép nhọn đen nhánh như bầu trời đêm mà Rainsford đến đây. Ðôi mắt của ông cực kỳ đen và sáng. Xương gò má cao, sống mũi nhọn thẳng, khuôn mặt thâm hiểm - khuôn mặt của kẻ thường ra lệnh, khuôn mặt của một quý tộc. Quay sang người khổng lồ mặc đồng phục, ông tướng ra dấu. Người khổng lồ cất súng, cúi chào và rút lui.
“Ivan là người khỏe mạnh phi thường.” ông tướng nhận xét, “nhưng bất hạnh thay là gã bị điếc và câm. Một con người đơn giản, nhưng, tôi ngại rằng gã cũng dã man như những người thuộc giòng giống của gã.
“Ông ấy là người Nga?”
“Gã là người cô-dắc.” viên tướng nói, mỉm cười để lộ đôi môi đỏ và hàm răng nhọn. “Tôi cũng thế.”
“Nào,” ông nói, “chúng ta sẽ không chuyện vãn ở đây. Chúng ta sẽ nói chuyện sau. Bây giờ anh muốn thay quần áo, ăn uống và nghỉ ngơi. Anh sẽ có tất cả. Ðây là một nơi nghỉ ngơi yên tĩnh nhất.”
Ivan xuất hiện và viên tướng nói với gã bằng cách mấp máy môi nhưng không phát ra một âm thanh nào.
“Hãy vui lòng đi theo Ivan, ngài Rainsford ạ.” viên tướng nói. “Khi anh đến tôi đang dùng bữa tối nên tôi sẽ đợi anh. Tôi nghĩ anh sẽ thấy quần áo của tôi  vừa vặn với anh.”
Rainsford đi theo gã khổng lồ câm đến một căn phòng ngủ có đèn chùm trên trần tỏa sáng, một chiếc giường ngủ trải khăn đủ cho sáu người nằm. Ivan đưa ra một bộ đồ mặc nhà, và Rainsford mặc vào, anh nhận thấy bộ đồ được cắt bởi một thợ may nổi tiếng ở Luân Ðôn, vốn không bao giờ may cho những ai không thuộc hàng công tước.
Căn phòng ăn mà Ivan đưa anh đến có nhiều điểm nổi bật. Nó toát ra một  vẻ đẹp tráng lệ của thời Trung Cổ; ra vẻ một căn phòng của nam tước thời phong kiến với những vách ván tường bằng gỗ sồi, trần nhà cao, những chiếc bàn ăn rộng mênh mông đến có thể đủ chỗ cho bốn chục người ngồi. Xung quanh phòng treo những chiếc đầu của nhiều loại thú - sư tử, hổ, voi, nai, gấu, to và hoàn hảo hơn bất kỳ thứ mẫu vật nào mà Rainsford từng thấy. Viên tướng đang ngồi một mình tại một chiếc bàn lớn.
“Anh sẽ có một ly cốc tai, anh Rainsford.” ông tướng đề nghị. Ly cốc tai ngon lạ thường; và, Rainsford nhận thấy những thứ bày biện trên bàn thật cầu kỳ - với chất liệu bằng vải lanh, pha lê, bạc và sứ.
Họ cùng ăn súp củ cải đỏ, một thứ súp màu đỏ, đậm đà với kem rất thân thuộc với khẩu vị của người Nga. Nửa như xin lỗi, tướng Zaroff nói, “Chúng tôi cố gắng hết sức để giữ được những tiện nghi của sự văn minh nơi đây. Vui lòng bỏ quá cho những khiếm khuyết. Chúng tôi quen sống phong lưu, anh biết đấy. Anh có nghĩ rượu sâm banh sẽ mất chất lượng khi phải chịu một cuộc hành trình qua đại dương?”
“Cũng không là bao.” Rainsford khẳng định. Anh nhận thấy viên tướng là một con người sâu sắc, niềm nở và hiếu khách, một con người sành điệu thực thụ. Nhưng có một nét nhỏ của viên tướng làm cho Rainsford cảm thấy mất tư nhiên đó là bất cứ lúc nào ngước lên khỏi đĩa là anh thấy viên tướng đang nghiên cứu, ngầm đánh giá anh.
“Có lẽ.” tướng Zaroff nói, “anh ngạc nhiên khi tôi biết tên anh. Anh thấy đấy, tôi đã đọc tất cả các cuốn sách về đề tài săn bắn xuất bản ở Anh, Pháp và Nga. Tôi chỉ có một đam mê duy nhất thôi anh Rainsford ạ, đó là đi săn.”
“Ông đã có những cái đầu tuyệt tác ở đây rồi mà.” Rainsford nói khi ăn một miếng thịt thăn thật ngon. “Cái đầu con trâu biển kia là cái to nhất mà tôi từng thấy.”
“Oà, đúng thế anh bạn. Nó là một con vật khổng lồ.”
“Nó đã tấn công ông ư?”
“Nó ném tôi lên một cái cây.” viên tướng đáp , “Làm tôi nứt sọ. Nhưng tôi lại được con thú đó.”
“Tôi luôn nghĩ trâu biển là loại vật săn nguy hiểm nhất trong các cuộc đi săn lớn.”
Trong giây lát, ông tướng không trả lời, chỉ mỉm một nụ cười kỳ lạ. Thế rồi ông chậm rãi nói, “Không. Anh sai rồi. Trâu nước không phải là con thú săn nguy hiểm.” Ông nhấp một hớp rượu. “trên khu bảo tồn của tôi ở hòn đảo này.”, ông vẫn nói với một giọng trầm, “tôi đã săn những con mồi nguy hiểm hơn.”
Rainsford hỏi đầy ngạc nhiên. “Có con mồi lớn như thế trên đảo này ư?”
Ông tướng gật đầu, “Con mồi lớn nhất.”
“Thật chứ?”
“Ồ, dĩ nhiên nó không tồn tại ở đây một cách tự nhiên. Tôi phải cung cấp cho hòn đảo này đấy.”
“Ngài ngụ ý gì thế đại tướng?” Rainsford hỏi. “Những con hổ ư?”
Viên tướng cười: “Không”, ông nói. “Việc săn hổ đã thôi không còn hấp dẫn tôi từ vài năm nay. Tôi đã rút hết những năng lực của chúng, anh thấy đấy. Tôi chẳng còn hồi hộp vì những con hổ nữa, không còn thực sự nguy hiểm. Tôi sống vì sự nguy hiểm, anh Rainsford ạ.”
Ông tướng rút từ trong túi ra một hộp thuốc lá bằng vàng mời người khách của mình một điếu thuốc đen dài với cái đầu bằng bạc; thơm nồng mùi hương trầm.
“Chúng ta đã có một vốn liếng về săn bắn, anh và tôi.” ông tướng nói. “Tôi sẽ vô cùng sung sướng được tham gia cùng anh.”
“Nhưng săn con mồi gì thế?” Rainsford bắt đầu hỏi.
“Tôi sẽ nói với anh.” viên tướng nói. “Anh sẽ thấy khoái, tôi biết. Tôi nghĩ tôi có thể nói, với tất cả sự khiêm tốn, rằng tôi đã tạo ra một điều hiếm thấy. Tôi đã phát minh ra một thứ cảm giác mới. Tôi có thể mời anh một ly rượu nữa chứ.”
“Cám ơn ngài.”
Viên tướng rót đầy hai ly và nói, “Chúa đã tạo ra những thi nhân, những vị vua, những kẻ hành khất. Ngài đã tạo ra tôi một người đi săn. Bàn tay của tôi là để bóp cò, cha tôi đã nói thế. Ông ấy là một người rất giàu có với hai trăm năm mươi ngàn mẫu đất ở Crimea[1], ông là một nhà thể thao đầy nhiệt huyết. Khi tôi chỉ mới lên 5, ông đã cho tôi một khẩu súng nhỏ, đặc biệt, sản xuất ở Mát xcơ va, để bắn những con chim sẻ. Khi tôi dùng nó để bắn những con gà tây đắt tiền của ông, ông không hề trừng phạt tôi mà còn khen ngợi tài thiện xa của tôi. Tôi giết con gấu đầu tiên ở Caucasus[2] khi tôi lên 10. Toàn bộ cuộc đời tôi là một cuộc đi săn kéo dài. Tôi vào quân đội  - đó là sự trông đợi của những đứa con trai các ngài quý tộc  - một thời được phân vào một trung đoàn kỵ binh cô dắc, nhưng mối quan tâm thật sự của tôi vẫn là đi săn. Tôi đã săn tất cả mọi loại thú trên khắp mọi miền. Không thể đếm xuể bao nhiêu con thú tôi đã giết.”
Viên tướng bập một hơi thuốc.
Sau khi chính quyền tan rã tôi rời đất nước, bởi vì thật khinh suất nếu một sĩ quan của Nga Hoàng còn ở lại đó. Nhiều nhà quí tộc Nga đã mất tất cả. Tôi, may mắn thay là đã đầu tư nặng vốn vào chứng khoán Mỹ, vì vậy tôi không bao giờ phải mở phòng trà ở Monte Carlo hay lái taxi ở Paris. Lẽ đương nhiên, tôi lại tiếp tục săn gấu xám ở những miền núi Bắc Mỹ, cá sấu ở Ganges[3], tê giác ở phía đông Châu Mỹ. Lúc ở Châu Mỹ con trâu đó đã húc tôi làm cho tôi phải nằm mất 6 tháng trời. Ngay khi bình phục, tôi bắt đầu săn báo đốm ở Amazon, bởi vì tôi từng nghe những con báo này rất tinh khôn. Chúng không như thế. Người cô dắc thở dài. “Chúng không cân sức với một xạ thủ lão luyện và một khẩu súng trường có công suất mạnh. Tôi cảm thấy thất vọng vô cùng. Một đêm nọ tôi nằm dài trong lều với cái đầu nhức như búa bổ thì một ý nghĩ khủng khiếp hiện lên trong đầu tôi. Săn bắn đã bắt đầu làm tôi chán nản! Còn nghiệp săn, nhớ lại, đã từng là lẽ sống của đời tôi. Tôi từng nghe những nhà kinh doanh Mỹ thường bị loạn trí khi từ bỏ cái nghiệp đã từng là lẽ sống của họ.
“Vâng, đúng như thế.” Rainsford đáp.
Viên tướng mỉm cười “ Tôi không mong gì loạn trí.” ông nói.” Tôi phải làm điều gì đó. Bây giờ, với tôi đó là do tâm trí mà nên, ngài Rainsford ạ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là lý do vì sao tôi thích sự săn đuổi nguy hiểm.”
“Hiển nhiên rồi tướng Zaroff ạ.”
“Vì thế,” viên tướng tiếp tục, “tôi tự hỏi vì sao việc săn bắn không còn quyến rũ tôi nữa. Anh còn trẻ hơn tôi nhiều, Rainsford ạ! Chưa từng đi săn nhiều như tôi, nhưng chắc anh có thể đoán được câu trả lời.”
“Ðó là gì thế?”
“Ðơn giản là thế này: săn bắn từng luôn là điều mà anh gọi là “thành tích thể thao”. Với tôi điều đó quá dễ dàng. Tôi luôn luôn có được con mồi của tôi. Luôn luôn. Không có gì chán hơn sự hoàn hảo.”
Viên tướng đốt một điếu thuốc mới.
“Không một con thú nào có một cơ duyên với tôi nữa. Nói như thế không phải là khoác lác, mà là tuyệt đối chính xác. Con vật không có thứ gì ngoài những cái chân và bản năng của nó. Bản năng không tương xứng với lý trí. Có thể nói rằng, khi tôi nghĩ một ý tưởng này, đó là thời khắc bi kịch đối với tôi.”
Rainsford tựa vào bàn mãi mê nghĩ về những điều người chủ nhà đang nói.
“Ý tưởng đó đến với tôi như một nguồn cảm hứng mà tôi phải thực hiện.” viên tướng tiếp tục nói.
“Và đó là?”
Viên tướng mỉm một nụ cười lặng lẽ của kẻ đã từng đương đầu, vượt qua nguy nan, đạt đến thành công. “Tôi đã phát minh ra con mồi mới để săn.” ông nói.
“Một con thú mới? Ông nói đùa đấy ư.”
“Không đùa chút nào.” Viên tướng nói. “Tôi chưa bao giờ nói đùa về chuyện săn bắn. Tôi cần một con mồi mới. Tôi đã tìm thấy nó. Vì vậy tôi đã mua hòn đảo rồi xây dựng tòa nhà này, nơi đây tôi thực hiện công việc đi săn. Hòn đảo này thật hoàn hảo cho mục đích của tôi - ở đây có rừng rậm, hỗn độn những đồi núi và đầm lầy.”
“Nhưng còn con mồi?”
“Ồ,.” viên tướng đáp “nó tạo cho tôi cuộc đi săn hào hứng nhất thế gian. Không có cuộc săn nào có thể so sánh được. Mỗi ngày tôi săn lùng, đến giờ tôi vẫn chưa chán, bởi vì tôi có một con mồi có thể tương xứng với bản lĩnh của tôi.
Sự hoang mang của Rainsford hiện rõ lên trên mặt anh.
“Tôi muốn săn con mồi lý tưởng đó.” Viên tướng giải thích. “Vì vậy tôi nói: “đặc tính của một con mồi lý tưởng là gì?” Và câu trả lời dĩ nhiên là: “Nó phải can đảm, láu cá, và trên hết, nó phải có lý trí.”
“Nhưng không một con mồi nào có thể có lý trí.” Rainsford phản đối.
“Anh bạn thân mến ạ,.” viên tướng nói, “Con người thì có đấy.”
“Nhưng ngài không thể nghĩ đến điều đó được..” Rainsford nói hổn hển.
“Tại sao lại không nhỉ?”
“Tôi không tin rằng ngài đang nói nghiêm túc, tướng Zaroff ạ. Ðiều này thật kinh khủng và rùng rợn.”
“Tại sao tôi lại không nghiêm túc? Tôi đang nói về chuyện săn bắn mà.”
“Săn bắn? Tay súng vĩ đại, tướng Zaroff, những gì mà ngài nói đó là tội giết người.
Viên tướng cười với toàn bộ sự sảng khoái, nhìn Rainsford một cách giễu cợt. “Tôi không tin rằng những ý tưởng lãng mạn về giá trị của đời sống con người lại tồn tại nơi một thanh niên hiện đại và văn minh như anh. Chắc chắn là anh đã từng trải qua chiến tranh..”
“Ðừng bắt tôi làm ngơ được trước sự giết người tàn nhẫn.” Rainsford kết thúc một cách mạnh mẽ.
Viên tướng cười rung cả người. “Anh thật khôi hài làm sao! Ngày nay người ta ít ngờ rằng có thể tìm thấy một thanh niên thuộc tầng lớp trí thức, thậm chí là ở Mỹ, mà lại ngây thơ như thế, tôi có thể nói, đó là quan điểm của thế kỷ XIX. Nó giống như tìm thấy cái hộp đựng thuốc lá trong một chiếc xe hơi limousine sang trọng. À phải, tổ tiên anh là người theo đạo Thanh giáo mà. Vì vậy vẫn còn có nhiều người Mỹ quan niệm như thế. Tôi cược là anh sẽ quên ngay chính kiến của mình khi anh săn với tôi. Anh sẽ có một ấn tượng để đời, ngài Rainsford ạ!.
“Cảm ơn ngài, tôi là một thợ săn, không phải là một kẻ sát nhân.”
“Ôâi trời,.” viên tướng nói hoàn toàn bình tĩnh, “lại những lời nói không dễ chịu. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể chỉ cho anh thấy sự đắn đo của anh hoàn toàn khó mà chấp nhận.”
“Vì sao?”
“Cuộc sống dành cho kẻ mạnh, để sống phải cần có sức mạnh. Và nếu cần phải dùng sức mạnh. Sự yếu đuối của thế giới được đặt nơi đây để tôn vinh cho sức mạnh. Tôi mạnh. Sao tôi lại không thưởng thức món quà dành cho tôi? Nếu tôi muốn săn, tại sao tôi không săn những cặn bã xấu xa của trái đất, những thủy thủ lang thang trên những con tàu..những người da đen, da trắng, da màu, Trung hoa .. -một con ngựa hay con chó săn thuần chủng còn xứng đáng hơn hai chục người như thế.”
“Nhưng họ là những con người “ Rainsford nói một cách bực tức.
“Ðúng thế.” viên tướng đáp. “Ðó là lý do tại sao tôi lại dùng họ. Họ mang cho tôi sự  thích thú. Họ có lý trí, cũng tạm được. Vì vậy họ khá nguy hiểm.”
“Nhưng do đâu mà ông có được họ?”
Mi mắt trái của viên tướng giật giật. “Ðảo này được gọi là Bẫy Tàu.”, ông trả lời “Thỉnh thoảng một cơn cuồng nộ của biển cả gởi họ đến với tôi. Ðôi khi, khi Thượng Ðế không tử tế cho lắm thì tôi giúp ông ấy một chút chứ sao. Ðến cửa sổ với tôi.”
Rainsford đến cửa sổ và nhìn ra hướng biển.
“Hãy xem kìa! Ngoài kia kìa!” viên tưóng la lên, chỉ vào màn đêm. Ðôi mắt của Rainsford chỉ trông thấy đêm đen. Khi đó, viên tướng ấn một chiếc nút, Rainsford trông thấy những ánh đèn lóe lên ở ngoài xa.
Viên tướng cười khoái trá. “Ðó là một eo biển, không có người, chỉ có những tảng đá khổng lồ với những gờ sắc như lưỡi dao cạo cong xuống, giống như một con thủy quái với hai hàm mở rộng. Chúng có thể vò nát một chiếc tàu dễ dàng như tôi bóp nát cái hạt dẻ này. Ông thả một quả hạch xuống sàn gỗ cứng và nghiến gót chân lên trên. “Ồ, vâng.” ông ta nói, tự nhiên như thể đang trả lời câu hỏi, “Tôi có điện. Chúng tôi phải cố duy trì nền văn minh ở đây mà.”
“Văn mình? Và ông đã bắn gục những con người ?”
Một nét giận dữ trong đôi mắt đen của viên tướng, nhưng chỉ thoáng hiện vài giây; và ông nói, trong một trạng thái gần như vui vẻ, “Ôi trời, Anh bạn tôi thánh thiện làm sao! Tôi đảm bảo với anh rằng tôi không làm cái điều mà anh nói. Ðiều đó thì thật dã man. Tôi đã đối  xử với những vị khách này rất chu đáo. Họ được rất nhiều thức ăn ngon và rèn luyện sức khỏe. Họ có được một điều kiện chăm sóc thể lực tối ưu. Anh sẽ thấy ngay chính anh vào ngày mai.”
“Ngài muốn nói gì?”
“Chúng ta sẽ thăm trường huấn luyện của tôi.” viên tướng mỉm cười. “ở bên trong một hầm rượu. Tôi có mười hai học sinh ở đó. Họ đến từ tàu San Lucar Tây Ban Nha do số phận kém may mắn đã đưa họ lọt vào những tảng đá dưới kia. Một số phận hèn kém, tôi rất tiếc phải nói như thế. Hạng người nghèo khổ và quen với boong tàu hơn là rừng rậm.” Ông đưa bàn tay lên, và Ivan, người phục vụ như một anh bồi, mang cà phê đặc Thỗ Nhĩ Kỳ đến. Rainsford cố gắng hết sức, dằn lòng nín lặng.
“Ðó là một con mồi săn, anh thấy đấy.”, Viên tướng tiếp tục bằng một giọng ôn tồn. “Tôi đề nghị một người trong bọn họ cùng săn.Tôi cung cấp cho hắn thức ăn và con dao săn tuyệt hảo. Tôi cho hắn ba giờ khởi hành. Tôi đi sau chỉ với một khẩu súng nòng nhỏ và lùng theo. Nếu con mồi của tôi lẩn tránh được tôi trong vòng ba ngày, hắn sẽ thắng. Nếu tôi tìm thấy hắn.”  -viên tướng mỉm cười - “hắn thua.”
“Còn nếu như anh ta từ chối việc bị săn? “.
“Ồ, viên tướng nói, “Dĩ nhiên là tôi cho hắn sự chọn lựa. Hắn cần phải chơi trò chơi đó dù hắn có không muốn. Nếu hắn không muốn săn, tôi sẽ giao hắn cho Ivan. Ivan từng là quan chức chuyên sử dụng roi da của Nga Hoàng, và anh ta có những ý tưởng riêng về thể thao. Vẫn thế thôi, Rainsford, lúc nào cũng thế, họ chọn việc đi săn.”
“Và nếu họ thắng?”
Nụ cười trên khuôn mặt viên tướng nở rộng. “Ðến hôm nay, tôi vẫn chưa từng thua.” ông nói. Thế rồi ông vội nói tiếp: “Tôi không muốn anh nghĩ tôi là kẻ khoe khoang, Rainsford . Nhiều người trong số họ gắng sức lắm cũng chỉ đạt đến trình độ sơ đẳng mà thôi. Có lúc tôi gặp một con người thô bạo. Gã gần như đã thắng tôi. Nhưng cuối cùng tôi đã dùng những con chó.”
“Chó ư ?”
“Theo lối này, tôi sẽ chỉ cho anh.”
Viên tướng đưa Rainsford đến một cửa sổ. Aùnh sáng từ cửa sổ hắt ra bập bùng tạo nên những hình ảnh kỳ dị trên sân ở phía dưới, Rainsford có thể thấy khoảng hơn chục hình thù đen sẫm đang đi lòng vòng bên dưới; khi chúng ngước lên nhìn, những con mắt xanh sáng quắc.
“Một sự định đoạt tương đối tốt.” viên tướng quan sát. “Chúng được thả ra vào lúc 7 giờ hằng đêm. Nếu có ai đó cố vào nhà - hoặc có thoát ra khỏi nhà - thì một điều cực kỳ đáng tiếc sẽ xảy ra cho hắn.” Ông ngân nga một đoạn nhạc của Folies Bergere.
“Và bây giờ.” viên tướng nói “Tôi muốn cho anh thấy một bộ sưu tập những cái đầu mới của tôi. Anh sẽ đi cùng tôi đến thư viện chứ?”
“Tôi hy vọng ngài bỏ quá cho tướng Zaroff ạ.” Rainsford đáp “Tôi thật sự cảm thấy không khỏe.”
“Oà, thật ư?” viên tướng hỏi với vẻ quan tâm. “Tôi cho rằng điều đó là lẽ tự nhiên thôi sau khi anh phải bơi một quãng đường dài. Anh cần một giấc ngủ thật ngon. Tôi cá rằng ngày mai anh sẽ trông giống một người khác. Rồi chúng ta sẽ săn chứ? E hèm, tôi sẽ có một cuộc săn đầy hứa hẹn đây..” Rainsford vội vã về phòng.
“Rất tiếc là anh không đi với tôi tối nay.” Viên tướng nói với theo. “Tôi phần nào trông đợi một cuộc chơi đẹp hơn - một người da đen, cao lớn, khỏe mạnh. Anh ta có vẻ giỏi xoay sở. Thôi được, chúc ngủ ngon Rainsford; hy vọng anh sẽ có một đêm nghỉ ngơi tốt.”
Chiếc giường khá êm, và bộ pyjama bằng lụa mềm, còn Rainsford mệt mỏi trong từng thớ thịt, tuy nhiên anh cũng không thể ổn định được tâm trí với cơn buồn ngủ. Anh nằm mở to mắt. Có lúc anh tưởng như nghe tiếng bước chân rón rén ở bên ngoài hành lang. Anh tìm cách mở cửa nhưng không được. Anh đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Căn phòng của anh nằm cao trên một trong những ngọn tháp. Những ánh đèn của tòa lâu đài đã tắt. Trời tối và yên tĩnh; nhưng có một mảnh trăng màu xám tái trên bầu trời. Với ánh sáng nhờ nhờ ấy anh có thể lờ mờ nhìn thấy sân sau. Nơi đó, bủa vây bên trong bên ngoài là những hình dáng đen sẫm lặng lẽ; bầy chó săn nghe thấy động tĩnh ngước lên cửa sổ nhìn anh, chờ đợi, với những đôi mắt xanh lè. Rainsford trở về giừơng và năm xuống. Bằng mọi cách anh cố đưa mình vào giấc ngủ. Anh rơi vào một giấc ngủ lơ mơ, đến khi trời gần sáng anh nghe một tiếng súng vẳng từ xa trong rừng.
Cho đến bữa tiệc trưa tướng Zaroff mới xuất hiện. Ông mặc một bộ y phục hoàn hảo bằng vải tuyt, tỏ vẻ quan tâm đến tình trạng sức khỏe của Rainsford.
“Còn tôi thì không được khỏe cho lắm.” viên tướng thở dài. “Tôi lo lắng Rainsford ạ. Tối qua tôi thấy những dấu hiệu căn bệnh cũ.”
Ðáp lại cái nhìn dò hỏi của Rainsford viên tướng nói: “Bệnh trầm uất.”
Ngừng lại để mời một miếng bánh crêpes, viên tướng giải thích: “Cuộc đi săn tối qua không hay ho gì. Anh ta mất bình tĩnh, cứ để lại một dấu vết thẳng tắp chẳng có một chút khó khăn nào để tìm kiếm. Ðó là nhược điểm đối với những thủy thủ; họ xoay sở một cách ngốc nghếch, không biết làm thế nào để có thể lẩn đi trong rừng. Họ hành động cực kỳ ngu xuẩn. Ðiều đó thật bực mình. Anh uống thêm một ly rượu nữa chứ Rainsford ?.
“Thưa ngài.” Rainsford nói một cách kiên quyết, “Tôi muốn rời khỏi hòn đảo này ngay lập tức.”
Viên tướng nhướng cặp lông mày rậm lên; dường như ông bị tổn thương. “Nhưng anh bạn thân mến.”, viên tướng phản đối “anh mới chỉ vừa ��ến thôi mà. Anh chưa từng có buổi săn..”
“Tôi muốn đi ngày hôm nay.” Rainsford nói. Anh thấy đôi mắt đen chết chóc của viên tướng đang nhìn anh, nghiên cứu anh. Gương mặt tướng Zaroff bỗng sáng rỡ.
Ông rót đầy rượu Chablis[4] từ một cái chai mờ đục vào ly của Rainsford với vẻ trân trọng.
“Ðêm nay.” viên tướng nói, “Chúng ta sẽ săn .. anh và tôi.”
Rainsford lắc đầu. “Không thưa ngài.”, anh nói, “Tôi sẽ không săn đâu.”
Viên tướng nhún vai và nhẹ nhàng ăn một quả nho. “Nếu anh muốn, anh bạn.” ông nói. “Sự chọn lựa là ở anh, nhưng tôi cũng không mạo muội nghĩ rằng anh sẽ thấy ý tưởng thể thao của tôi thú vị hơn của Ivan?”
Ông ta hất đầu về phía trong góc nơi gã khổng lồ đang đứng cau có, hai cánh tay to của hắn đang vòng trước khuôn ngực lực lưỡng.
“Ông không có ý định ..” Rainsford la lên.
“Anh bạn thân mến,.” viên tướng đáp, “tôi đã chẳng nói với anh là tôi luôn nghiêm túc khi nói về việc đi săn hay sao. Ðây quả thật là một cảm hứng, tôi cạn chén cùng kẻ thù ngang ngửa với tay súng của mình.. lần chót. Viên tướng nâng ly nhưng Rainsford vẫn ngồi nhìn chằm chằm vào ông.
“Anh sẽ thấy rằng cuộc chơi này rất đáng chơi .” viên tướng nói một cách hào hứng. “Trí tuệ của anh sẽ đối phó với tôi. Tài đi rừng của anh tranh đua với tôi. Sức mạnh và nghị lực của anh sẽ chống chọi với tôi. Một ván cờ ngoài trời! Và tiền cược cũng không phải là không giá trị phải không nào?.
“Và nếu tôi thắng..” Rainsford hỏi giọng khản đặc.
“Tôi sẽ thừa nhận rằng mình thất bại nếu tôi không tìm thấy anh vào lúc nửa đêm ngày thứ ba.” tướng Zaroff nói “Chiếc thuyền nhỏ của tôi sẽ đưa anh vào đất liền gần thị trấn.” Viên tướng đã đọc được những gì Rainsford nghĩ.
Oà, anh có thể tin tưởng tôi.” người cô dắc nói, “Tôi nói với anh bằng lời nói danh dự của một nhà quý tộc và nhà thể thao. Dĩ nhiên để đổi lại anh sẽ không kể gì về việc viếng thăm nơi đây.”
“Tôi không đồng ý với cái gì đại loại như thế.” Rainsford đáp.
“Oà.” viên tướng nói, “trường hợp này .. sao lại thảo luận bây giờ? Ba ngày sau chúng ta sẽ vừa uống rượu Veuve Cliquot vừa thảo luận điều này, trừ phi..
Viên tướng nhấp một ngụm rượu.
Thế là một bầu không khí sôi nổi như từng có trước đây lại kích động ông. Ông nói với Rainsford. “Ivan sẽ cung cấp cho anh áo quần đi săn, thức ăn và một con dao. Tôi đề nghị anh mang giày da đanh; ít để lại dấu vết hơn. Tôi cũng đề nghị anh nên tránh cái đầm lầy lớn ở góc đông nam hòn đảo. Chúng tôi gọi là Ðầm Lầy Chết. Oå đó có vùng cát lún. Một gã ngu ngốc đã thử nó rồi. Ðiều tồi tệ là con Lazarus cũng theo hắn. Anh có thể hiểu đựơc tình cảm của tôi Rainsford. Tôi yêu Lazarus; nó là con chó tinh nhất trong bầy. Thôi nào, bây giờ tôi phải xin anh bỏ quá cho. Tôi luôn luôn ngủ sau bữa ăn trưa, e rằng anh cũng sẽ khó mà có thời gian để chợp mắt. Hiển nhiên là anh muốn khởi hành. Tôi sẽ không theo anh cho đến khi trời chạng vạng. Ði săn ban đêm thú vị hơn nhiều so với ban ngày anh có nghĩ thế không? Tạm biệt, ngài Rainsford, tạm biệt.” Tướng Zaroff nhã nhặn cúi chào và thong thả bước ra khỏi phòng.
Từ một khung cửa khác, Ivan đến. Gã kẹp dưới tay một bộ đồ đi săn bằng vải ka ki, một cái túi dết đựng thức ăn, một chiếc bao da chứa một con dao đi săn lưỡi dài; tay phải của gã gác lên trên khẩu súng giấu trong chiếc khăn quàng đỏ thẫm đeo ngang hông.
Rainsford đã tìm thấy con đường xuyên qua bụi rậm trong hai giờ. “Mình phải bình tĩnh. Mình phải bình tĩnh.” anh nói xuyên qua kẽ răng.
Anh đã không hoàn toàn nhạy bén khi chiếc cổng của tòa lâu đài khóa lại sau lưng anh. Toàn bộ ý nghĩ đầu tiên của anh là tạo một khoảng cách giữa anh và tướng Zaroff; anh đã cắm đầu chạy thục mạng như những người chèo thuyền hốt  hoảng cho  đến địa điểm này. Bây giờ thì anh đã trấn tĩnh lại, anh dừng lại và lưu tâm đến tình cảnh hiện tại của mình. Anh thấy rằng cứ chạy thẳng thì vô ích; vì chắc chắn sẽ đối mặt với biển. Anh đang ở trong một bức tranh mà chiếc khung là nước, mọi hoạt động của anh, rõ ràng chỉ nằm bên trong chiếc khung đó.
“Ta sẽ cho lão một dấu vết để theo.” Rainsford lẩm bẩm, anh rẽ ngang từ lối mòn và đi vào một nơi rậm rạp không có đường đi. Anh tạo nên một loạt các thòng lọng rắc rối; nhân bản những dấu vết để lại, nhớ lại tất cả kiến thức về săn cáo; và cả những lối chạy lắt léo của con cáo. Ðêm tối trong rừng, với những nhánh cây quất vào tay vào mặt làm anh mệt lử. Anh biết là sẽ rất là điên rồ khi mò mẩm trong bóng tối cho dù là anh mạnh khỏe đi chăng nữa. Cấp thiết cần nghỉ ngơi, anh nghĩ “mình đã chơi trò con cáo, và giờ đây mình phải chơi trò con mèo trong câu chuyện ngụ ngôn.” Có một cây to với thân cây dày và những nhánh trải rộng ở ngay bên cạnh, anh trèo thật cẩn thận tránh không để lại một dấu vết nhỏ nhất, trèo lên một cái chạc cây duỗi người trên thảm lá rộng, cũng tạm được, anh nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi đã mang đến cho anh một sự tự tin mới và gần như là một cảm giác an toàn. Ngay cả một thợ săn đầy cuồng nhiệt như tướng Zaroff cũng không thể tìm thấy anh ở đây, anh tự bảo với mình; chỉ có quỷ sứ mới có thể theo lần những dấu vết phức tạp bên trong khu rừng rậm tối tăm này. Nhưng có lẽ viên tướng là quỷ sứ...
Một đêm kinh hoàng đang từ từ trườn lại như một con rắn bị thương. Giấc ngủ không thèm ghé thăm Rainsford, cho dù cái tịch lặng của một thế giới chết chóc đang bao trùm lấy khu rừng già. Gần đến sáng, màu xám đang loang dần trên bầu trời, tiếng kêu thảng thốt của những con chim thu hút sự chú ý của Rainsford về hướng đó. Có cái gì đó đang tiến đến, xuyên qua bụi cây, chầm chậm và cẩn trọng, đang tiến đến theo một lối quanh co mà Rainsford đã đi qua. Anh nép mình sát phiến lá, xuyên qua màn lá dầy như tấm thảm, anh nhìn thấy.. Cái đang tiến dần lại là một người đàn ông.
Ðó là tướng Zaroff. Ông ta đang đi dọc theo con đường của anh với đôi mắt tập trung cực độ vào nền đất phía trước mặt. Ông dừng lại, gần như bên dưới cây,  quỳ gối xuống và nghiên cứu mặt đất. Trong Rainsford có một thôi thúc muốn lao xuống như một con báo, nhưng anh thấy trong bàn tay phải của viên tướng có nắm vật gì đó bằng kim loại - một khầu súng tự động.
Người truy đuổi lắc đầu vài lần, như thể bối rối. Thế rồi ông đứng thẳng lên và lấy ra từ trong hộp ra một điếu xì gà; hương thơm cay nồng của nó bay đến tận mũi của Rainsford.
Rainsford nín thở. Mắt của viên tướng không còn nhìn xuống đất nữa mà hướng dần lên trên cây. Rainsford đông cứng ở đó, mọi cơ đều căng lên như sợi dây. Thế nhưng đôi mắt của viên tướng lại dừng lại trước khi chúng hướng đến thảm lá nơi Rainsford nằm; một nụ cười nở ra trên khuôn mặt rám nắng. Ðầy hữu ý, ông nhả một vòng khói vào trong không khí; quay lưng về phía cái cây rồi bước đi một cách cẩu thả, theo dấu vết mà ông đã đến. Tiếng sột soạt dưới những bụi cây khi đôi ủng săn bước đi càng lúc càng nhỏ dần.
Không khí nén trong phổi của Rainsford như vỡ ra. Yù nghĩ đầu tiên của anh làm cho anh cảm thấy mệt mỏi và tê cứng: viên tướng có thể lần theo một dấu vết xuyên qua rừng đêm; ông ta có thể theo một dấu vết cực kỳ khó khăn nhất; ông ta ắt phải có một sức mạnh kỳ bí; chỉ một cơ may nhỏ bé nhất mới có thể làm cho gã Cô dắc này không nhìn thấy con mồi của mình.
Yù nghĩ thứ hai càng làm cho Rainsford kinh hoàng hơn. Nó tao ra một cơn ớn lạnh xuyên suốt người anh. Tại sao viên tướng lại mỉm cười? Tại sao ông ta lại quay lui?.
Rainsford không muốn tin rằng những gì mà lý trí đã bảo anh là đúng, nhưng sự thật vẫn hiển nhiên như ánh mặt trời mà giờ đây đã xua tan đi màn sương mù buổi sớm. Viên tướng đang vờn anh! Ông đang để dành anh cho một ngày đi săn khác! Gã Cô dắc này là con mèo, còn anh là con chuột. Ðó là điều làm cho Rainsford nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của sự khiếp đảm.
“Mình sẽ không mất bình tĩnh. Mình sẽ không mất bình tĩnh.”
Anh trượt xuống khỏi cái cây và một lần nữa xóa bỏ dấu vết trong rừng. Mặt anh nghiêm lại và anh bắt đầu động não. Khi cách nơi trú ẩn trước khoảng ba trăm thước anh dừng lại nơi có một cây chết khô khổng lồ dựa chênh vênh vào một cái cây tươi nhỏ hơn. Ném túi đồ ăn xuống, Rainsford lấy dao ra khỏi bao và bắt đầu làm việc hết sức mình.
Cuối cùng công việc đã hoàn thành, anh ném mình xuống sau một một khúc gỗ ngã cách đó vài chục mét. Anh đã không phải chờ đợi lâu. Con mèo đang đến để vờn chuột.
Theo sau những dấu vết với sự chính xác như loài chó săn, tướng Zaroffroff đã đến. Không có một cái gì có thể thoát khỏi sự tìm kiếm của đôi mắt đen đó, không một ngọn cỏ ngã, một cành con bị cong, một dấu vết, bất kể là mờ nhạt đến đâu, hay trong đám rêu. Gã Cô dắc trong cuộc truy nã quá mê mải đến nỗi ông vượt qua cái công trình mà Rainsford đã làm trước khi kịp thấy nó. Chân ông chạm vào một cành cây nhô ra, đó là “cò súng.” Thậm chí khi chạm đến, viên tướng có cảm giác nguy hiểm và nghiêng về phía sau với sự nhanh nhẹn của một con khỉ. Nhưng ông không đủ nhanh hoàn toàn, cái cây chết được điều chỉnh một cách tinh vi đè lên chiếc cây còn sống đã bị cắt, ngã xuống và sượt vào vai của viên tướng; nhưng do cảnh giác; nếu không ông ắt hẳn bất tỉnh phía dưới cây. Ông lảo đảo, nhưng không ngã xuống; cũng không làm rơi súng. Ông đứng đó, bóp bên vai vị thương; và Rainsford, một lần nữa nỗi sợ hãi choáng ngợp tim anh khi anh nghe tiếng cười nhạo của viên tướng xuyên qua rừng.
“Rainsford.”, viên tướng gọi, “nếu anh có thể nghe được tiếng tôi, hãy cho tôi được chúc mừng anh. Không có nhiều người biết cách làm cái bẫy người kiểu Mã Lai này đâu. May mắn thay là tôi đã từng đi săn ở Malacca. Anh đang thử nghiệm một cách lý thú, Rainsford ạ. Bây giờ tôi đi băng bó vết thương đây; vết thương cũng xoàng thôi. Nhưng tôi sẽ trở lại. Tôi sẽ trở lại.”
Khi viên tướng đã đi để chăm sóc cái vai thâm tím, Rainsford lại tiếp tục cao chạy xa bay một lần nữa. Lần chạy này là một sự tẩu thoát liều lĩnh và vô vọng kéo dài trong vài giờ. Hoàng hôn xuống, bóng tối trùm lên mà anh vẫn chạy. Mặt đất trở nên mềm hơn dưới gót giày da đanh của anh. Cây cối um tùm rậm rạp hơn, lũ côn trùng cắn anh một cách hung bạo.
Thế rồi, khi bước về phía trước, chân anh lún vào trong bùn. Anh cố giật chân lại nhưng nó hút chặt cứng chân anh như một con đỉa khổng lồ. Với một vố gắng tột bậc, anh giật mạnh chân ra. Anh biết mình đang ở đâu  - Ðầm Lầy Chết và vùng cát lún.
Hai tay anh anh nắm chặt như thể  nghị lực của anh là một cái gì đó hữu hình mà ai đó trong bóng tối đang cố níu anh lây. Sự mềm mại của đất làm cho anh nảy sinh một ý tưởng. Anh bước lui khỏi vùng cát lầy khoảng chục bước và giống như những con hải ly khổng lồ thời tiền sử, anh bắt đầu đào.
Rainsford đã từng đào cho chính mình ở Pháp vào những giây phút hiểm nghèo. So với lần  đào bây giờ thì hồi đó là một sự giải trí bình lặng. Cái hố đã sâu hơn; khi nó sâu tới vai thì anh trèo ra ngoài, anh dùng vài cái cây nhỏ để vót thành những chiếc cọc nhọn. Những chiếc cọc này anh trồng vào đáy hố, mũi nhọn chỉa lên trên. Với những ngón tay lanh lẹ anh làm một chiếc thảm bằng cỏ và những cành cây rồi đậy lên trên miệng hố. Ướt đẫm vì mồ hôi, ngứa ngáy và mệt lả, anh nép mình sau một gốc gây.
Anh biết kẻ truy nã đang đến; anh nghe tiếng chân dẫm lên trên mắt đất mềm, và làn gió đêm mang theo hương thờm mùi thuốc xì gà của viên tướng. Dường như Rainsford cảm thấy viên tướng đang đến nhanh nhẹn một cách khác thường; anh không cảm nhận được từng bước của ông. Rainsford, nép mình ở đó, không thể thấy viên tướng cũng như không thể thấy cái hố. Anh đã sống một phút dài như một năm. Thế rồi anh cảm thấy muốn hét lên sung sướng, bởi vì anh nghe vang lên tiếng răng rắc của những nhánh cây gãy khi nắp đậy hố bị lún xuống. Anh nghe một tiếng thét đau đớn khi những chiếc cọc nhọn đã tìm thấy điểm đích của nó. Anh nghiêng người ra khỏi nơi ẩn náu. Thế rồi anh co rúm người lại. Cách cái hố ba BỘ một người đàn ông đang đứng với chiếc đèn pin trong tay.
“Anh đã làm rất tốt Rainsford.”, giọng của viên tướng vang lên. “Cái bẫy hổ của người Miến điện đã giết mất một trong những con chó tốt nhất của tôi. Tôi nghĩ  một lần nữa anh lại ghi bàn, Rainsford ạ. Tôi sẽ thấy những gì anh có thể làm để  đối phó với toàn bộ bầy chó của tôi. Bây giờ tôi phải về nhà nghỉ ngơi. Cảm ơn anh về một buổi tối dễ chịu.
Tảng sáng, Rainsford đang nằm gần khu đầm lầy, bị đánh thức bởi một âm thanh mà anh biết rằng sẽ có những điều mới mẻ hơn để anh nhận thức được nỗi sợ hãi. Ðó là một âm thanh ở xa, yếu ớt và ngập ngừng, nhưng anh biết rõ. Ðó là tiếng sủa của bầy chó săn.
Rainsford biết anh có thể làm một trong hai điều. Có thể ở lại ngay đây và chờ đợi. Ðó là tự tử. Có thể chuồn. Ðó là cách trì hoãn cái số phận. Trong giây lát anh đứng dậy và nghĩ ngợi. Một ý tưởng ngẫu nhiên đến với anh. Anh thắt chặt dây nịt, đi thẳng xa khỏi  đầm lầy.
Tiếng sủa của bầy chó săn trở nên gần hơn, rồi gần hơn nữa, gần nữa. Trên một gờ đá Rainsford trèo lên một thân cây. Bên dưới là lòng sông, cách xa chưa tới một phần tư dặm, anh có thể trông thấy những bụi cây di động. Căng mắt nhìn, anh thấy hình dáng nghiêng người của tướng Zaroff, ngay phía trước ông ta là một bóng dáng khác với đôi vai rộng nhô lên trong rừng cỏ rậm; đó là Ivan khổng lồ, gã dường như bị kéo về phía trước bởi một sức mạnh nào đó; Rainsford biết là Ivan đang thả bầy chó săn.
Chúng sẽ tìm thấy anh tức khắc. Trí óc anh điên cuồng. Anh nghĩ đến một mưu mẹo từng học được ở Uganda. Tuột xuống  cây, anh níu giữ một cành cây non khá đàn hồi và buộc chặt con dao săn vào đó, vít cái lưỡi dao nhọn xuống đường, với một sợi dây nho dại anh buộc ngược vào chiếc cây non. Thế rồi anh chạy thục mạng. Bầy chó săn cao giọng sủa khi chúng đánh hơi thấy mùi thịt tươi. Rainsford giờ đây mới biết rõ bầy chó cảm thấy sung sướng như thế nào.
Anh dừng lại để thở. Tiếng sủa của bầy chó cũng dừng lại đột ngột, tim của Rainsford cũng ngừng theo. Chúng đã đến chỗ con dao.
Anh hồi hộp ba chân bốn cẳng trèo lên cây và nhìn xuống. Những con thú đuổi anh đã dừng lại. Nhưng sự hy vọng trong tâm trí của Rainsford đã tắt ngúm ngay khi anh trèo lên bởi vì anh thấy ở rãnh nước nông, tướng Zaroff vẫn đứng yên. Nhưng Ivan thì không. Con dao bật ngược lại do bị kéo bởi cành cây đàn hồi đã không hoàn toàn vô dụng.
Rainsford gần như nhào lộn xuống đất khi bầy chó lao lên sủa lần nữa.
“Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh!” anh trấn an mình khi lao lên. Một khoảng trống màu xanh da trời lộ ra giữa những chiếc cây khô ở phía trước. Bầy chó tiến gần đến mãi. Rainsford tung mình về phía khoảng trống đó. Anh đã vươn tới khoảng trống đó. Ðó là bờ biển. Băng ngang qua cái vịnh nhỏ anh có thể nhìn thấy những phiến đá xám ảm đạm của tòa lâu đài. Hai mươi bộ phía dưới anh là biển sâu đang ầm ầm gào thét. Rainsford do dự. Anh nghe tiếng bầy chó. Thế rồi anh lao ra xa nhào xuống biển..
Khi viên tướng và bầy chó của ông đến cạnh biển, Người Cô dắc dừng lại. Ông đứng quan sát mặt biển xanh mênh mông vài phút. Ông nhún vai, rồi ngồi xuống, uống một hớp rượu từ chiếc chai dẹt, đốt một điếu xì gà, và càu nhàu.
Tướng Zaroff đã có một bữa ăn tối cực kỳ ngon trong căn phòng ăn quý tộc buổi tối hôm đó. Ông ăn bữa tối với một chai Pol Roger và một nửa chai Chambertin. Hai nỗi phiền muộn đã làm cho bữa ăn tối của ông không được hoàn hảo. Một là  ý nghĩ khó có ai có thể thay thế Ivan, hai là con mồi của ông đã trốn thoát; và dĩ nhiên, người Mỹ đã không chơi trò chơi..viên tướng nghĩ như vậy khi ông nhấp một ly rượu mùi sau bữa ăn. Trong thư viện ông đọc sách để khuây khỏa, những tác phẩm của Marcus Aurelius. Lúc 10 giờ ông đi đến phòng ngủ. Ông cảm thấy nỗi mệt mỏi tuyệt diệu, ông nói với mình, khi ông khóa cửa. Có một chút ánh trăng, vì vậy, trước khi bật đèn, ông đến bên cửa sổ và nhìn xuống sân sau. Ông nhìn thấy bầy chó săn to lớn,  ông nói “Chúc may mắn lần sau nhé.” với chúng. Rồi ông bật đèn lên.
Một người đàn ông, trốn sau những chiếc rèm ở bên giường, đang đứng đó.
“Rainsford!” viên tướng thét lên. “ Sáng danh Chúa làm sao mà anh lại vào được đây?”
“Ðầm lầy.” Rainsford đáp. “Tôi thấy rằng nó nhanh hơn là băng rừng.”
Viên tướng hít một hơi và mỉm cười. “Tôi chúc mừng anh.” ông nói “Anh đã thắng cuộc chơi.”
Rainsford không hề mỉm cười. “Tôi vẫn còn là một con thú ở cái vịnh này.” anh nói, bằng một giọng trầm, khàn khàn. “Hãy sẵn sàng đi, tướng Zaroff.”
Viên tướng cúi chào một cách trân trọng. “Tôi hiểu.” ông nói. “Tuyệt vời! Một người trong chúng ta sẽ cung cấp bữa tiệc cho bầy chó săn. Người kia sẽ ngủ trên chiếc giường rất tuyệt hảo này. Hãy đề phòng, Rainsford…”
Lão sẽ không bao giờ được ngủ trên một chiếc giường tốt hơn thế nữa. Rainsford quyết định.
[1] Một bán đảo ở TN Ukraine kéo dài đến tận Hắc Hải.
[2] Vùng biên giới giữa ÐN Châu AÂu và Tây Châu Á, giữa Hắc Hải và biển Caspien.
[3] Giòng sông ở phía Bắc Ấn Ðộ và Baladesh, chảy từ Himalayas vào Vịnh Bengal.
[4] Một loại rượu vang nguyên chất miền đông nước Pháp.
0 notes
reine-du-sourire · 7 months
Text
The sudden urge to write a TMDG fanfic called Prey Tell
9 notes · View notes
bracketsoffear · 1 month
Text
Tumblr media
The Most Dangerous Game (Richard Connell) "Big-game hunter Sanger Rainsford and his friend Whitney are traveling by ship to the Amazon rainforest for a jaguar hunt. Rainsford falls overboard while investigating the sound of gunshots in the distance and swims to Ship-Trap Island, where he finds General Zaroff and his manservant Ivan. Zaroff, another big-game hunter, knows of Rainsford from his published account of hunting snow leopards in Tibet. Over dinner, he explains that although he has been hunting animals since he was a boy, he has decided that killing big game has become boring for him. After escaping the Russian Revolution, he purchased Ship-Trap and rigged the island with lights to lure passing ships into the jagged rocks that surround it. He takes the survivors captive and hunts them for sport, giving himself handicaps to increase the challenge. Any captives who can elude Zaroff, Ivan, and a pack of hunting dogs for three days are set free; to date, though, Zaroff has never lost a hunt. Rainsford denounces the hunt as barbarism, but Zaroff replies by claiming that ‘life is for the strong.’ Zaroff is enthused to have another world-class hunter as a companion and offers to take Rainsford along with him on his next hunt. When Rainsford staunchly refuses and demands to leave the island, Zaroff decides to hunt him instead. Rainsford uses traps and cleverness to outmaneuver Zaroff, killing Ivan and one of the dogs before jumping into the sea. Disappointed at Rainsford's apparent suicide, Zaroff returns home, but finds Rainsford waiting for him, having swum around the island to evade the dogs and sneak into the chateau. Zaroff offers congratulations for defeating him, but Rainsford prepares to fight him, saying that the hunt is not yet over. A delighted Zaroff responds that the loser will be fed to his dogs, while the winner will sleep in his bed. The story abruptly concludes later that night by stating that Rainsford enjoyed the comfort of the bed, implying that he killed Zaroff in the fight."
The Serial Killers Club (Jeff Povey) "When our unlikely hero runs into a murderer, he ends up killing the killer. Then he goes through his attacker's wallet and finds another shocker: an invitation to a party hosted by Errol Flynn. Errol Flynn? Isn't he dead? Intrigued, our hero crashes it - and discovers the Serial Killers Club. Its mission: share thrills and make sure members don't target the same victims. With aliases from old Hollywood, they include "Tallulah Bankhead", "Richard Burton", and soon, "Douglas Fairbanks Jr.", our hero himself. But "Dougie" isn't going to waste the innocent. Instead, he plans to knock off the "stars" one by one. And when they notice their numbers dropping, he'll have to answer a killer question: is he one of them - or not?
Obviously there are some strong Hunt element here, killing killers, questions of morality, becoming the monsters that you kill, etc. But also, "Okay, I know how it sounds, but Murder Club wasn’t supposed to be like this.""
5 notes · View notes
squash1 · 4 months
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
[the raven king, maggie stiefvater / normal people / extremely loud and incredibly close, jonathan safran foer / skam / strawberry wine, noah kahan / our flag means death / the good place / ted lasso / the raven king]
415 notes · View notes
inacatastrophicmind · 8 months
Text
Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media Tumblr media
554 notes · View notes